A Di Đà Kinh Yếu Giải – Ngẫu Ích Đại Sư

Phật thuyết A Di Ðà Kinh Yếu Giải

  • Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch kinh
  • Tác Giả: Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí Húc chú giải vào đời Thanh
  • Việt dịch: Bồ Tát Giới Ðệ Tử Tuệ Nhuận
  • Diễn đọc: Quảng Âm

Download A Di Ðà Kinh Yếu Giải pdf : adidakinhyeugiai-ngauichdaisu.pdf

 

Download A Di Ðà Kinh Yếu Giải MP3

01 02 03 04 05 06 07 08


Youtube

 

A Di Ðà Kinh Yếu Giải
Phật Tánh
Lời tựa A Di Ðà Kinh Yếu Giải mới dịch ra tiếng Việt
Tu Thiền Tông mau chóng thành Phật nhất, tu Tịnh Ðộ tông còn mau chóng và
chắc chắn hơn. Tu môn này thì mỗi tiếng niệm Phật danh là thấy rõ Phật tính hiện
tiền. Thấy rõ Phật tính là thành Phật quả, thành Phật quả là chuyển hóa ñược quả
ñất Ta Bà thành quả ñất Cực Lạc, là diệt trừ ñược tai nạn chiến tranh tàn sát cho
quần chúng hết ñau khổ, là trả lại hạnh phúc, hòa bình, tự do, bình đẳng cho tất
cả muôn loài.
Tuệ Nhuận

 

Chánh Văn
Lời tựa Phật Thuyết A Di Ðà Kinh Yếu Giải
Nguyên là chư Phật thương xót lũ người mê, phải tùy cơ của mỗi người mà bố thí
cho lời giáo hóa.
Ðưa người tới ñích, tuy chỉ có một ñích thôi, mà dùng phương tiện ñể ñưa ñi, tất
phải dùng nhiều phương tiện. Trong hết thảy các phép phương tiện, tìm lấy một
phép rất thẳng, rất mau, rất tròn, rất chóng, thì không phép nào bằng phép
“niệm Phật cầu sinh Tịnh Ðộ”.
Lại trong các phép niệm Phật, tìm lấy một phép giản dị, rất ổn ñáng thì không
phép nào bằng phép “tín, nguyện, chuyên trì danh hiệu”.
Thế cho nên ba bộ kinh nói về Tịnh Ðộ ñều có lưu hành, mà cổ nhân chỉ chọn lấy
một bộ kinh A Di Ðà làm khóa tụng hàng ngày. Thế chẳng phải là một phép Trì
Danh ấy hợp với tất cả ba hạng người: thượng căn, trung căn, và hạ căn, tóm
thâu ñược cả phần Sự, phần Lý không còn thiếu sót. Cả Thiền tông và các giáo
môn khác cũng không thể ra ngoài ñược phép Trì Danh này. Thực là một phép
chẳng khá nghĩ bàn vậy.
Về việc chú thích và giải nghĩa kinh này, thời ñại nào cũng không thiếu người,
nhưng còn ñể lại ở ñời không có mấy. Bộ sách Sớ Sao của Ngài Vân Thê thì rộng
lớn tinh vi, bộ Viên Trung Sao của Ngài U Khê thì cao cả sâu rộng, như hai vầng
mặt trời, mặt trăng ở giữa trời, ai có mắt mà chẳng thấy rõ.
Chỉ vì văn chương giàu có lắm, nghĩa lý phồn thịnh nhiều không bờ, không bến
chẳng ai ño lường ñược, ñến nỗi những người mới học, biết ít, khó bề ngoi lên ñể
mở lòng tin và phát nguyện.
Cho nên tôi chẳng quản ngu hèn, lại trước thuật sách Yếu Giải này, chẳng dám
cùng với hai ông cạnh tranh mà lập dị, và cũng chẳng dám cố ép cho ñược ñồng ý
với hai ông.
Trước hết, tôi rút ở trong những câu văn của bộ kinh này, lấy 5 tầng nghĩa lý
huyền vi mà giải thích:
I. Thích nghĩa rõ cái tên ñề của bộ kinh.
II. Biện luận thể chất của bộ kinh.
III. Nói rõ tôn chỉ của bộ kinh.
IV. Nói rõ lực dụng của bộ kinh.
V. Nói về giáo tướng của bộ kinh.
(Lời người dịch: Ðọc tụng bộ kinh này, phải biết rõ năm tầng nghĩa huyền vi ấy
thì người tu mới thấy có hiệu nghiệm và ñắc ñạo).

Ngũ trùng huyền nghĩa
(Năm tầng nghĩa huyền vi)
I. Thích rõ nghĩa cái tên ñề của bộ kinh
Bộ kinh này dùng người nói ra kinh và người bị nói ñến trong kinh ñể ñặt thành
cái tên ñề của bộ kinh là “Phật thuyết A Di Ðà kinh”. Chữ “Phật” ở ñây nghĩa là gì?
Chữ “Phật” ấy là ñức giáo chủ, người nói ra bộ kinh này, tức là ñức Thích Ca Mâu
Ni, Ngài theo sức mạnh của lời thề nguyện và lòng thương xót hết thảy, mà Ngài
giáng sinh vào trong ñời ñầy cả năm uẩn ñộc ác. Ngài là người giác ngộ trước
tiên, Ngài giác ngộ cho người sau cũng giác ngộ như Ngài; không có một pháp
nào mà Ngài chẳng biết rõ, thấy rõ.
Chữ “thuyết” là Ngài vui lòng mà nói ra. Phật lấy việc cứu ñộ chúng sinh làm vui
lòng nhất. Cơ hội chúng sinh ñược thành Phật ñã ñến rồi, nên Ngài mới nói cái
phép tu rất khó tin này cho mà nghe, ñể cho chóng ñược giải thoát rốt ráo, cho
nên Ngài rất vui lòng mà nói.
Chữ “A Di Ðà” là tên của ñức Ðạo Sư ở quả ñất bên kia, là người bị nói ñến trong
bộ kinh này, tức là ñức A Di Ðà người ñã dùng 48 lời thệ nguyện ñể tiếp dẫn
những chúng sinh có lòng tín, nguyện, niệm Phật cho sinh về thế giới Cực Lạc,
ñược vĩnh viễn lên ngôi Bất Thoái.
Chữ “A Di Ðà” là tiếng Phạn (Brahma) ở Ấn Ðộ, nguyên âm ñọc là Amita, dịch
nghĩa ra chữ Hán là Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang, nghĩa là “sống lâu vô
cùng, sáng suốt vô cùng”. Nhưng nói tóm lại thì Ngài còn có rất nhiều công ñức
ñều là vô cùng, vô tận, vô lượng, vô biên, như là: trí tuệ, thần thông, ñạo lực, y
báo trang nghiêm, thuyết pháp, giáo hóa, tế ñộ v.v… cái gì cũng vô lượng, vô
biên cả.
Chữ “kinh” thì tất cả những lời vàng do Phật nói ra ñều là Kinh. Chữ “kinh” là
phần Thông, ñối với 5 chữ “Phật thuyết A Di Ðà” ở trên là phần Biệt. Cả hai phần
hợp lại mà thành ra cái tên của bộ kinh này. Mỗi bộ kinh phải có ñủ ba phần:
phần giáo, phần hình và phần lý; phần nào cũng có cả Thông và Biệt, muốn hiểu
biết, xem bộ Thai Tạng sẽ rõ.
II. Biện luận về thể chất của bộ kinh
Kinh Ðại Thừa nào cũng phải lấy Thực tướng làm thể chất chính của bộ kinh(1)
.
Thực tướng là cái gì? Thực tướng là tâm tính của con người ta. Tâm tính của con
người ta nó chỉ hiện ra trong một niệm (một loáng)(2). Ðối với không gian nó
chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa. Ðối với thời gian, nó chẳng phải quá
khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Ðối với mầu sắc, nó chẳng xanh, vàng,
ñỏ, trắng… Ðối với hình thức, nó chẳng phải dài, ngắn, vuông, tròn… Ðối với
phẩm chất, nó chẳng phải Hương, chẳng phải Vị, chẳng phải Xúc, chẳng phải
Pháp… Tìm nó mãi chẳng thể thấy ñược, mà chẳng khá bảo rằng nó là cái không
thực có; nó tạo ra ñược ñủ 100 pháp giới, 1000 cái Như Thị(3), mà chẳng khá bảo
rằng nó là cái thực có.
Nó không phải là hình tướng của những cái mình suy nghĩ, phân biệt, nhận biết
bằng lời nói, bằng chữ viết, câu văn; thế mà những cái mình suy nghĩ, phân biệt,
nhận biết bằng lời nói, chữ viết, câu văn ñều không có tự tính nếu không có nó.
Tóm lại, nó chẳng phải là hết thảy mọi hình tướng, mà nó tức là hết thảy mọi
pháp (mọi sự, mọi vật).

Vì nó chẳng phải là mọi hình tướng, cho nên nó không có hình tướng; nhưng nó
tức là mọi pháp cho nên hình tướng nào nó cũng có. Bất ñắc dĩ, chẳng biết gọi nó
là gì, phải miễn cưỡng gọi nó là “Thực tướng” vậy. Thể chất của Thực tướng chẳng
phải yên lặng (tịch), chẳng phải soi sáng (chiếu), lại vẫn yên lặng mà thường soi
sáng, vẫn soi sáng mà thường yên lặng (tịch chiếu, chiếu tịch).
Vì nó soi sáng mà yên lặng, nên miễn cưỡng gọi nó là chỗ ở Thường Còn, Yên
Lặng, Sáng Ngời (Thường Tịch Quang Ðộ)(4). Vì nó yên lặng mà soi sáng, nên
miễn cưỡng gọi nó là Thân Pháp Tính Trong Sạch (Thanh Tịnh Pháp Thân).
Lại còn, nó vừa Chiếu và Tịch, nên miễn cưỡng gọi nó là Pháp Thân; nó vừa Tịch
vừa Chiếu, nên miễn cưỡng gọi nó là Báo Thân. Lại còn, trong nó có hai Ðức, một
ñức về phần Tính và một ñức về phần Tu. Tu ñức của nó cũng vừa Tịch vừa
Chiếu, nên gọi nói là Báo Thân.
Lại nữa, Tu ñức của nó vừa Chiếu vừa Tịch, nên gọi là Thụ Dụng Thân. Tu ñức của
nó vừa Tịch vừa Chiếu nên gọi là Ứng Hóa Thân.
Phần Tịch, phần Chiếu chẳng phải là hai. Phần Tính, phần Tu chẳng phải là hai.
Thân với Ðộ(5) chẳng phải là hai. Cái gì cũng là Thực tướng cả.
Thực tướng không phải là hai, cũng không phải là chẳng hai. Bởi thế, cho nên có
khi toàn thể cái Thực Tướng ấy, cái thì tạo ra y báo, cái thì tạo ra chính báo, cái
thì tạo ra Pháp Thân, cái thì tạo ra Báo Thân, cái thì tạo ra tự mình, cái thì tạo ra
kẻ khác v.v… cho ñến có khi: cái thì tạo ra người Năng Thuyết(6), cái thì tạo ra
người Sở Thuyết(7), cái thì tạo ra người Năng Ðộ(8), cái thì tạo ra người Sở Ðộ(9)
,
cái thì tạo ra Năng Tín, cái thì tạo ra Sở Tín, tạo ra Năng Nguyện, Sở Nguyện,
Năng Trì, Sở Trì, Năng Sinh, Sở Sinh, Năng Tán, Sở Tán v.v… cái gì cũng là “nét
in” của “con dấu” Thực tướng ñã in ra cả.
(Lời người dịch: Ý nghĩa huyền bí của tầng thứ hai này là: Tất cả những cái gì nói
ở trong bộ kinh A Di Ðà ñều là những cái do Thực tướng tâm tính Bồ Ðề của con
người ta hay là của chư Phật, hay là của chúng sinh ñã tạo ra tất cả. Tức là cái
nghĩa huyền bí ở trong câu: “Nhất thiết duy tâm tạo” ở kinh Hoa Nghiêm, hay là ở
trong câu: “Thị chư Pháp Thực Tướng” ở kinh Pháp Hoa, hay là ở trong câu “nhất
thiết duy tâm sở hiện” ở kinh Thủ Lăng Nghiêm. Vậy chỉ có tâm Bồ Ðề của con
người là Chính Thể của tất cả kinh Ðại Thừa. Hiểu ñược huyền nghĩa này, các kinh
sẽ hiểu)

III. Nói về tôn chỉ của bộ kinh
Tôn chỉ là ñường lối thiết yếu tu hành, là then chốt ñể nhận rõ Thực Tướng của
tâm tính mình. Nó là cương lĩnh của muôn vàn ñức hạnh tu trì. Cương là ñầu mối
của cái lưới, hễ nắm ñược cương thì các mắt lưới ñều phải giương lên. Lĩnh là cổ
áo, hễ nắm ñược lĩnh thì tay áo và vạt áo ñều buông thẳng xuống.
Cho nên sau khi ñã biện luận Thể Chất của bộ kinh rồi, phải biện luận Tôn Chỉ của
nó, ñể người tu học nắm lấy cương lĩnh của bộ kinh, dùng làm then chốt, ñường
lối cho muôn vàn công hạnh tu trì.
Kinh này dùng cái tâm TÍN và NGUYỆN với việc TRÌ DANH (tức là Niệm Phật) làm
Tôn Chỉ thiết yếu tu hành. Chẳng có tâm Tín, chẳng ñủ sức phát nguyện. Chẳng
phát nguyện, chẳng ñủ sức ñi ñến chỗ thực hành.
Chẳng thực hành ñược cái hạnh tu mầu nhiệm Trì Danh (tức là việc niệm Phật) thì
chẳng làm ñược cho mình mãn nguyện và chứng thực ñược cái pháp mình ñã tin
theo (tức là ñược sinh sống cái ñời sống trong sạch ở nơi trong sạch – tịnh thân ở
Tịnh Ðộ).
Trong kinh này, trước hết chỉ bày cho thấy rõ phần Y Báo là chỗ ở trong sạch tức
là Tịnh Ðộ, và phần Chính Báo, là cái thân trong sạch, tức là tịnh thân ñể người tu
thấy rõ, hiểu rõ, ñể sinh lòng Tin chắc thật. Sau rồi chỉ bảo cho phép Trì Danh, là
phép niệm danh hiệu Phật, ñể người tu lên thẳng ngôi Bất Thoái (lên ngôi này
chẳng còn thoái lui xuống nữa, tức là ngôi Bồ Tát).
TÍN là tin, tin ở mình (tín tự), tin ở người ta (tín tha), tin ở nhân, tin ở quả, tin ở
sự, tin ở lý.
NGUYỆN là cầu nguyện cho mình chán bỏ ñược chỗ ở cực ác: cõi Sa Bà, cầu
nguyện cho mình vui thích chỗ ở chí thiện cõi: Cực Lạc.
HÀNH là phải thực hành việc chấp trì danh hiệu (tức là việc niệm Phật). Niệm
Phật sao cho ñến chỗ: “Nhất tâm bất loạn”, nghĩa là niệm Phật ñể giữ cái tâm
mình cho nó rất yên tĩnh, nó không bị những thành kiến, tà kiến, những lòng
tham dục, giận dữ, ngu si, kiêu mạn, nghi ngờ, luôn ñến, luôn làm cho tâm mình
bị rối loạn.
TÍN
1. Thế nào là tin ở mình?
Người tu học mà tin ở mình là: tin ở cái tâm tính của mình(1), nó chỉ hiện ra trong
một loáng (một niệm). Tâm tính của mình ñây chẳng phải là trái tim thịt ñâu,
chẳng phải là những cái bóng trần duyên mình tưởng tượng thấy hiện ra ở trong
khối óc, trái tim ñâu.
Tâm tính của mình ñây: về thời gian, nó không có lúc nào là kiếp trước của nó,
không có lúc nào là kiếp sau của nó; về không gian, nó không có chỗ nào là bến
bờ của nó. Lúc nào cũng có nó, chỗ nào cũng có nó, nó tràn ñầy khắp cả vũ trụ,
khắp không gian vô biên, khắp thời gian vô tận.
Tâm tính của mình, suốt ngày nó theo mọi trần duyên, suốt ngày nó chẳng hề
biến ñổi.

Cả quãng hư không mênh mông bát ngát khắp mười phương và bao nhiêu thế giới
nhiều như vi trần ñang quay cuồng ở trong ñó, ñều là những vật bị tạo ra ở trong
tâm tính của mình trong một niệm hiện ra ñây.
Mặc dầu mình tối tăm ñiên ñảo, mê hoặc, không nhận rõ ñược tâm tính của mình
nó bao la rộng lớn như thế, nhưng nếu mình chịu hồi tâm trong một niệm (một
loáng) thì quyết ñịnh là mình sẽ ñược sinh vào cái thế giới Cực Lạc, là cái thế giới
vốn sẵn có ñủ ở trong tâm tính của mình, không còn nghi ngờ gì nữa.
Tin như thế gọi là Tin ở mình (tức là tin ở cái tâm tính chân thực của mình, trong
nó có sẵn mầm nhân ñể tạo ra thế giới Cực Lạc).
2. Thế nào là tin ở người?
Người tu học tin ở người, là tin Phật Thích Ca không nói dối, tin Phật A Di Ðà
không nguyện xuông, tin chư Phật ở sáu phương có tướng lưỡi rộng dài, quyết
không nói hai lời. Phải thuận theo lời dạy bảo chân thực của chư Phật, quyết chí
cầu sinh sang Cực Lạc, không còn nghi hoặc nữa.
Tin như thế gọi là tin ở người (tức là mình tin lời dạy bảo của người).
3. Thế nào là tin ở nhân?
Người tu học tin ở nhân là tin rất sâu rằng: Kẻ niệm Phật mà tâm tán loạn cũng
còn tạo ra ñược hạt giống ñể thành Phật mai sau, huống chi là người niệm Phật
nhất tâm bất loạn thì sao lại chẳng ñược sinh sang Tịnh Ðộ.
Tin như thế gọi là tin ở nhân (vì mình tin cái tiếng niệm Phật ấy tức là cái nhân
thành Phật).
4. Thế nào là tin ở quả?
Người tu học tin ở quả là tin rất sâu rằng: Các vị thượng thiện nhân ñang tụ hội ở
cõi Tịnh Ðộ kia, ñều là những người ñã theo phép Niệm Phật Tam Muội mà ñã
ñược sinh sang ñấy, giống như người trồng nhân dưa ñã ñược quả dưa, trồng
nhân ñậu ñã ñược quả ñậu. Cũng giống như bóng phải theo hình, vang phải theo
tiếng, quyết không hư hỏng chút nào.
Tin như thế gọi là tin ở Quả (vì mình tin sự kết quả của những người ñã ñược sinh
kia).
5. Thế nào là tin ở sự thật?
Người tu học tin ở sự thật là tin rất sâu rằng: Cái tâm tính của mình tuy nó chỉ
hiện ra trong một niệm (một loáng), mà thực ra nó rộng lớn vô cùng, chẳng biết
ñến ñâu là hết ñược; thế thì những thế giới khắp mười phương xuất hiện ở trong
tâm tính mình cũng chẳng biết bao nhiêu là hết ñược. Vậy thời thế giới Cực Lạc ở
cách ñây mười vạn ức Phật ñộ là một thế giới có thực, rất thanh tịnh trang
nghiêm, chứ chẳng phải thế giới tưởng tượng ở trong bài ngụ ngôn của Trang Tử.
Tin như thế gọi là tin ở sự thực (vì mình tin cảnh giới Tịnh Ðộ là một sự thực có).
6. Thế nào là tin ở lý?
Người tu học tin ở lý là tin rất sâu rằng: Mười vạn ức Phật ñộ tuy là nhiều lắm, xa
lắm; mà thực ra nó chỉ ở trong tâm tính của ta hiện ra trong một niệm ñây. Nó
không thể ở ra ngoài tâm tính của ta ñược, bởi vì tâm tính của ta không có ñâu là

ngoài ñể cho nó ở. Vả lại tin rất sâu rằng: Ở Tây Phương, Tịnh Ðộ của thế giới
Cực Lạc với tịnh thân của vị Giáo Chủ và của các bạn
(2) ñều giống như những cái
bóng hiện ra ở trong cái gương tâm tính của ta ñây hiện ra trong một niệm.
Hoàn toàn những sự ấy tức là lý, hoàn toàn những vọng ấy tức là chân, hoàn toàn
phần tu ấy tức là phần tính, hoàn toàn phần người khác ấy tức là phần mình; bởi
vì tâm tính của mình tràn ñầy khắp cả. Tâm tính của Phật cũng tràn ñầy khắp cả.
Tâm tính của hết thảy chúng sinh cũng tràn ñầy khắp cả. Thí dụ như nghìn ngọn
ñèn cùng ở trong một căn nhà, ánh sáng của ñèn nào cũng tràn ñầy khắp cả nhà;
ánh sáng này, ánh sáng khác nó giao chập vào với nhau chẳng hề chướng ngại gì
cả. Tin sâu như thế gọi là tin ở Chính Lý (vì mình tin toàn thể cái khối Nhất Chân
Pháp Giới ấy là chính lý).
NGUYỆN
Người tu học ñã có sáu sức mạnh tin như thế rồi thì hiểu rằng: Cõi Sa Bà ô uế này
là do tâm tính mình ô uế ñã tạo ra nó, lý ưng mình phải chán bỏ nó ra; cõi Cực
Lạc trong sạch kia là do tâm tính mình trong sạch tạo ra nó, lý ưng mình vui cầu
lấy nó (sự thật này tức là lý thật).
Mình ñã chán ô uế thì nên bỏ, mà ñã nên bỏ thì phải bỏ cho thật rốt ráo, không
còn phải bỏ ñi, bỏ lại nữa. Mình ñã thích trong sạch thì nên lấy, mà ñã lấy thì
cũng lấy cho kỳ rốt ráo, không còn phải lấy ñi lấy lại nữa.
Sách Diệu Tông nói: “Người nào ñã bỏ hết rồi, ñã lấy hết rồi tức là người không
còn phải bỏ, phải lấy gì nữa. Nếu ai chẳng làm cho trọn hết cái việc lấy và bỏ, mà
ñã vội nói rằng tôi chẳng lấy, chẳng bỏ gì cả, thế là người chỉ nói lý xuông, mà
chẳng chịu làm cho xong phận sự. Phần Sự ñã bỏ chẳng chịu làm cho xong thì
phần Lý cũng chẳng bao giờ ñược trọn vẹn”.
Nếu mình ñã hiểu thấu ñược (và tin chắc ñược) hoàn toàn Sự ấy tức là Lý ấy, thời
mình chí nguyện lấy sự này tức là ñúng lý mà lấy, và mình chí nguyện bỏ sự kia,
cũng là ñúng lý mà bỏ; một khi bỏ, một khi lấy chỉ là bỏ Pháp Giới này lấy Pháp
Giới kia ñấy thôi. Và ñều ñúng lý cả.
Cho nên sau khi ñã có tâm Tín rồi, thì phải phát nguyện cho rõ ràng (chí nguyện
bỏ hay là chí nguyện lấy).
HÀNH
Bây giờ nói ñến Hành là người chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn, tức là người
niệm danh hiệu Phật ñể cho tâm mình ñậu vào một chỗ, chẳng bị rối loạn.
Niệm danh hiệu Phật là niệm công ñức Phật (ñã tin sâu như thế thì cứ tin, ñừng
suy nghĩ nữa mà hỏng việc). Công ñức của Phật chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn
cho nên danh hiệu của Phật cũng chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn (vì trí tuệ mình
thấp kém quá, nghĩ bàn sao ñược mà nghĩ bàn!)
Danh hiệu của Phật và công ñức của Phật ñều chẳng khá nghĩ bàn, cho nên người
niệm danh hiệu Phật mà tâm tán loạn cũng ñã tạo ñược hạt giống thành Phật mai
sau và người niệm Phật nhất tâm bất loạn sẽ ñược lên ngay ngôi Bồ Tát Bất
Thoái.
Các kinh nói về phép tu Tịnh Ðộ rất nhiều, có nghìn vạn phép khác nhau, như là
những phép ngồi quán tưởng Phật, phép ngồi quán tượng và các phép: lễ bái,

cúng dường, ngũ hối, lục niệm v.v… Trong các phép ấy, tu ñược một phép nào
cũng ñược sinh về Tịnh Ðộ.
Duy chỉ có một phép Trì Danh là phép niệm Phật này là thu ñược hết mọi hạng
người, ai tu cũng ñược. Và ai bắt tay vào tu cũng thấy rất dễ. Cho nên không ai
hỏi mà ñức Thích Ca tự nói ra kinh này, Ngài ñặc biệt hướng vào ông Xá Lợi Phất,
là người ñại trí tuệ, mà nói cho nghe.
Ðủ biết phép này là một phép Liễu Nghĩa Vô Thượng(3) rút ra ở trong các phương
tiện liễu nghĩa ñệ nhất, và là một phép tối cao viên ñốn(4) rút ra ở trong các phép
Viên Ðốn. Cho nên nói rằng: “Ngọc minh châu bỏ vào nước ñục, nước ñục tất phải
trong. Danh hiệu Phật gieo vào cái tâm rối loạn, tâm rối loạn tất phải thành
Phật”.
Cái tâm Tín và Nguyện với cái việc Trì Danh ở kinh này là cái mầm nhân chân
thực của ñạo Nhất Thừa(5), tức là bốn cõi Tịnh Ðộ. Gây ñược nhân thời quả tất
phải theo nhân mà mọc ra. Cho nên dùng cái tâm Tín và Nguyện với cái việc Trì
Danh làm tôn chỉ chính ñáng của bộ kinh này.
Còn tướng trạng của bốn cõi Tịnh Ðộ, ở bộ Diệu Tông Sao và kinh Phạm Võng
Huyền Nghĩa ñã nói rất tường tận, ở ñây không thể nói hết ñược. Xuống dưới này,
ở chỗ thích nghĩa Y Báo và Chính Báo, tôi sẽ nói lược thêm.

 

 

0 0 bỏ phiếu
Article Rating
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Bình luận góp ý - hỏi đáp thắc mắc.x
()
x
Zalo HỖ TRỢ