A Di Đà Kinh Hợp Giải
Tác Giả: Bửu Quang Tự Đệ Tử Như Hòa hợp dịch
Download .doc: a-di-da-kinh-hop-giai-buu-quang-tu-de-tu-nhu-hoa.doc
Download .pdf: a-di-da-kinh-hop-giai-buu-quang-tu-de-tu-nhu-hoa.pdf
Youtube:
A Di Đà Kinh Hợp Giải MP3
01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 |
11 |
Lời Trần Tình
Trong các kinh điển Ðại Thừa được lưu truyền rộng rãi, xét về mức độ
được giảng giải, trì tụng, có lẽ kinh Di Ðà chỉ kém Tâm Kinh Bát Nhã. Từ
trước đến nay, trong các tùng lâm, kinh Di Ðà vẫn thường được tụng vào
mỗi thời công phu tối và hầu như bất cứ vị Tăng Ni thuộc truyền thống Bắc
Tông nào cũng đều thuộc lòng kinh Di Ðà. Bổn Sư của mạt nhân kể rằng:
Trong thời gian làm điệu, ngoài bản Sa Di Tỳ Ni, Hòa Thượng viện chủ bắt
các điệu phải học thuộc lòng Di Ðà đến nỗi có thể đọc từ chữ cuối ngược lên
đầu kinh mà không vấp. Khi học chữ Hán, văn bản đầu tiên Hòa Thượng
dùng để dạy các điệu cũng là kinh Di Ðà. Khi Hòa Thượng còn tại thế, dù
tụng kinh gì đi nữa, mỗi ngày đại chúng trong chùa đều phải tụng Di Ðà ít
nhất một lần.
Tuy được lưu truyền, trì tụng rộng rãi trong khắp các tùng lâm, đối với
Phật tử nói chung, kinh Di Ðà vẫn là một kinh bị hiểu lầm nhiều nhất. Trong
một lần trò chuyện với một Phật tử tu tại gia lâu năm, cũng tu hạnh Tịnh Ðộ,
mạt nhân đã sững sờ khi nghe vị ấy nói: “Cháu tụng kinh gì hằng ngày?
Kinh Di Ðà hả? Mỗi ngày tôi tụng một quyển Pháp Hoa hay kinh Niết Bàn
kia, chứ những kinh nhỏ, sơ cơ như kinh Di Ðà, kinh Ðịa Tạng chỉ khi nào
đi đám ma tôi mới thèm tụng đến mà thôi!” Tưởng chỉ mình vị ấy nghĩ như
thế, nào ngờ phần lớn những đạo hữu thường gặp hằng tuần tại ngôi chùa
gần nhà cũng đều cho rằng kinh Di Ðà chỉ dành để đọc cho người chết nghe!
Thật là đáng buồn, bản kinh quý báu, tâm huyết của đức Thích Tôn, diệu
dược cho đời Mạt Pháp đã bị hiểu lầm, rẻ rúng đến thế ấy!
Sau này, khi đi nghe giảng, chúng tôi cũng rất ngạc nhiên khi thấy không
ít vị xuất gia cũng tỏ vẻ coi thường kinh Di Ðà. Theo họ, kinh Di Ðà chỉ
dành cho hạng ông già, bà cả, ít chữ trì tụng. Ðối
A Di Đà Kinh Hợp Giải, trang 4
Lạc”. Hậu quả tất nhiên là có không ít Phật tử mỗi Chủ Nhật đến chùa tụng
một phẩm Pháp Hoa hay Kim Cang, niệm Phật dăm câu lấy có; thế là đã an
tâm mình đã “mua sẵn vé” về cõi Cực Lạc, là đã tu nhiều lắm rồi! Chẳng ai
bận tâm tìm hiểu giáo nghĩa kinh Di Ðà chi cả. Người tự nhận mình là hạ
căn chỉ mong khi chết được vãng sanh, nhưng mấy ai bận tâm đến Tín –
Hạnh – Nguyện! Những người tự coi mình là bậc thượng căn thì nếu có ai
khuyên nên niệm Phật sẽ cười mũi, bảo chỉ có tham thiền hay quán tưởng, trì
chú mới là pháp xứng đáng để họ tu tập thôi. Tiếc thay, tuy nói thế, họ cũng
chẳng dụng công tọa thiền, cũng chẳng dụng công quán tưởng, trì chú, chỉ
luôn nhai nhải: “Duy Tâm Tịnh Ðộ, tự tánh Di Ðà! Cực Lạc là đây, lựa tìm
đâu xa!”, rồi vẫn an nhiên mặc cho quang âm vùn vụt thoáng qua!
Pháp môn Tịnh Ðộ nói chung và kinh Di Ðà bị hiểu lầm như thế có phải
vì kinh Di Ðà không được giảng giải cặn kẽ hay không? Hoàn toàn không,
từ xưa đến nay, ngoài hai kinh Kim Cang và Tâm Kinh, có lẽ kinh Di Ðà đã
được giảng và chú giải nhiều nhất. Tính cho đến hiện tại, đa số các vị giảng
sư dù ít hay nhiều đều đã từng giảng qua bản kinh này. Ðiều đáng ngạc
nhiên là ít có Phật tử nào chịu tìm đọc các bản chú giải kinh A Di Ðà, đành
phải hiểu kinh qua cách diễn giảng của các vị giảng sư không mặn mòi với
pháp môn Tịnh Ðộ. Do quá nhiệt tình đề xướng pháp môn của tông phái
mình, các vị giảng sư ấy đã nhìn kinh Di Ðà qua lăng kính đầy thiên kiến,
khiến thính chúng đã lầm càng lầm thêm. Ðiều đáng buồn là hai bản chú giải
trác tuyệt là Di Ðà Yếu Giải và Di Ðà Sớ Sao đã được phiên dịch sang Việt
ngữ từ lâu, nhưng có mấy người chịu đọc kỹ càng! Bao lẽ tinh yếu, sâu xa,
huyền diệu của kinh Di Ðà đã được hai vị Tổ Sư Liên Trì và Ngẫu Ích phơi
bày đến cùng cực. Theo mạt nhân thấy biết, mỗi khi giảng kinh, các vị giảng
sư hoằng dương Tịnh Ðộ không ít thì nhiều đều phải dẫn trích ý kiến của nhị
vị Tổ Sư.
Năm 1984, trong một lần thọ Bát Quan Trai Giới, trong giờ nghỉ trưa,
mạt nhân nghe một cụ đạo hữu lớn tuổi than vãn là đã tốn nhiều công đọc
bản Sớ Sao, nhưng vẫn chưa thể lãnh hội nổi. Theo cụ, ý nghĩa của Sớ Sao
quá uyên áo, quá phức tạp; tiếc thay từ ngữ, câu văn được dùng trong bản
dịch lại quá cổ, dịch quá sát theo cú pháp Hán văn, nên rất khó cảm nhận
được ý chỉ lời dạy của Tổ. Khi đọc qua Yếu Giải, tuy lời văn trong sáng,
giản yếu hơn, cụ vẫn cảm thấy khó lãnh hội những phần Tổ luận về Chân
Như, Thật Tướng… Cụ cho rằng để lãnh hội được phần nào hai bản chú giải
trên, người đọc phải hiểu biết khá nhiều về Phật pháp cũng như phải hiểu
được một số thuật ngữ chuyên môn của Hoa Nghiêm, Thiên Thai lẫn Duy
Thức. Do thế, những người mới học Phật sẽ dễ chán nản, khó thể kiên nhẫn
theo dõi toàn bộ hai bộ chú giải trên. Nghe lời than thở ấy, mạt nhân chợt
suy nghĩ: sao mình không tổng hợp những lời giảng của các vị giảng sư cận
A Di Đà Kinh Hợp Giải, trang 5
đại Trung Hoa để tạo thành một cuốn chú giải kinh Di Ðà dễ hiểu hơn, ngõ
hầu các hành nhân sơ cơ, chưa biết nhiều về Phật pháp có thể đọc hiểu được.
Khi đã có khái niệm căn bản về những thuật ngữ thường dùng trong kinh,
nắm được ý chính của kinh Di Ðà, họ sẽ lãnh hội được các bản Yếu Giải và
Sớ Sao dễ dàng hơn.
Ý định này nung nấu đã lâu, nhưng tháng ngày thoi đưa, mạt nhân vẫn
chưa tìm được tài liệu vừa ý. Khi ấy, trong tay mạt nhân chỉ có Di Ðà Kinh
Bạch Thoại Giải của lão cư sĩ Hoàng Trí Hải. Tiếc thay, tác phẩm này chỉ là
viết lại ý kinh theo thể văn Bạch Thoại, cũng như giải thích đôi ba thuật ngữ
Phật giáo, để những người không quen đọc cổ văn Trung Hoa có thể hiểu
được nội dung kinh Di Ðà theo mặt văn tự, chứ không nêu lên kiến giải gì
đặc biệt. Ðã thế, lời văn lại quá rườm rà, chỉ thích hợp cho độc giả Trung
Hoa, không bõ công dịch sang tiếng Việt. Sau này được đọc thêm cuốn Di
Ðà Kinh Dị Giải của bà Hàn Anh, đổng sự trưởng Tịnh Tông Học Hội Ðài
Loan, thì cuốn này cũng chỉ là bản rút gọn tác phẩm của cụ Hoàng Trí Hải,
nên cũng không gợi lên một sự hứng thú nào. Khi sang Mỹ, do bận rộn với
sinh kế và việc học, ý nguyện xưa tưởng chừng như quên lãng hẳn.
Ngẫu hợp sao, giữa năm 2002, đạo hữu Minh Lập đã gởi tặng một loạt
những bản chú giải kinh Di Ðà của các vị giảng sư cận đại như:
1) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Giảng Lục của pháp sư Ðạo Nguyên.
2) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Bạch Thoại Giảng Giải của Nam Ðình Hòa
Thượng.
3) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Yếu Thích của Pháp Sư Bân Tông.
4) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Yếu Giải Thân Văn Ký do pháp sư Bảo
Tịnh giảng.
Kế đó, đạo hữu Không Châu gởi tặng một loạt sách Tịnh Ðộ. Trong ấy,
có cuốn A Di Ðà Kinh Thông Tán Sớ của pháp sư Khuy Cơ đời Ðường. Ðã
thế, đạo hữu Huệ Trang lại còn cho mượn cuốn Phật Thuyết A Di Ðà Kinh
Giảng Nghĩa của pháp sư Văn Châu. Trong một lần đi niệm Phật tại chùa
Tịnh Ðộ, mạt nhân thỉnh được thêm cuốn Trùng Ðính Nhị Khóa Hiệp Giải
của pháp sư Hưng Từ soạn (trong cuốn này, phần Di Ðà Kinh Huyền Nghĩa
cũng chứa đựng nhiều kiến giải lý thú) và cuốn Tịnh Ðộ Tư Lương của lão
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ (trong cuốn này, cụ Hoàng chỉ giảng sơ lược về kinh
Di Ðà qua bài viết A Di Ðà Kinh Tông Yếu, Tín Nguyện Trì Danh).
Trước sự hiện hữu cùng lúc của bao nhiêu tác phẩm chú giải ấy, ý
nguyện xưa chợt sống lại mạnh mẽ trong tâm trí. Tuy thế, mạt nhân vẫn băn
khoăn không biết có nên tiến hành hợp dịch ý kiến chú giải của chư sư hay
không, chỉ e mình sẽ làm một việc thừa thãi, vô ích. Sau khi thỉnh ý các vị
đạo hữu Vạn Từ, Minh Tiến, Minh Lập, Huệ Trang và đều được hứa khả,
khuyến khích, mạt nhân đánh bạo gạn lọc những ý chính trong những tác
A Di Đà Kinh Hợp Giải, trang 6
phẩm chú giải trên, chọn lấy những điểm đặc sắc, dịch thành một tác phẩm
vụng dại, tạm đặt tên là A Di Ðà Kinh Hợp Giải.
Xét trong các bản chú giải trên, bản chú giải của Pháp Sư Bân Tông chi
tiết nhất, nhiều ý tưởng độc đáo nhất, phân chia chương mục rõ ràng nhất, lại
có cả phần hiển lý giống như Sớ Sao, nên mạt nhân chọn bản này làm gốc.
Bản chú giải của pháp sư Khuy Cơ quá nặng về Duy Thức học nên không
thích hợp lắm cho người sơ cơ. Vì thế, mạt nhân chỉ chọn lấy những điểm
thật đặc sắc và dễ hiểu. Bản của pháp sư Văn Châu tuy không có nhiều ý
tưởng độc đáo, nhưng cách phân chia thành mười môn lớn để chú giải rất
giống với cách thích kinh của tổ Liên Trì nên mạt nhân tuân thủ cách phán
định và phân chia chương mục của Văn pháp sư.
Khi chọn dịch, những đoạn chư sư nhắc lại ý kiến của chư vị Liên Trì và
Ngẫu Ích, mạt nhân đều lược qua không dịch; bởi lẽ, những ý đó đã được
phô diễn trọn vẹn trong hai bản Yếu Giải và Sớ Sao. Ðể hiểu những tư tưởng
đó, phải đọc trong ngữ cảnh của Sớ Sao và Yếu Giải mới thấy chúng sâu
sắc, tinh yếu tuyệt diệu đến dường nào!
Dù cố gắng hết sức, nhưng với trí huệ nông cạn, trình độ Phật học thiển
cận, chắc chắn trong quá trình chọn lọc, chuyển ngữ, không thể nào tránh
khỏi những lỗi lầm lẽ ra không nên có. Chỉ mong dịch phẩm thô lậu này sẽ
giúp cho những hành nhân sơ cơ có được đôi chút kiến thức sơ cấp để làm
hành trang tham cứu ban đầu hòng lãnh hội được những điểm u huyền, tinh
túy trong Yếu Giải và Sớ Sao.
Nếu như việc làm liều lĩnh này đem lại chút lợi lạc nào thì xin hồi hướng
đến khắp pháp giới chúng sanh, những ai thấy nghe kinh Di Ðà đều khởi
lòng tin kính sâu xa, đều chăm tu Tịnh nghiệp. Nguyện tất cả những hành
nhân đồng hạnh Tịnh nghiệp sẽ cùng được hội ngộ nơi quê hương Cực Lạc.
Phật lịch 2547, tiết Lập Thu, Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa kính bạch